Cobalt (Co)

Có vai trò rất quan trọng đối với vi sinh vật cố định N2. Vì thế cobalt rất cần cho sự hình thành và phát triển của nốt sần cây họ đậu, cũng như trong tảo cố định N2. Nồng độ bình thường của cobalt trong cây từ 0,02 – 0,5 ppm trong chất khô. Chỉ cần 10 ppm cobalt trong dung dịch dinh dưỡng là đủ cho sự cố định đạm của cỏ alfalfa.

Cobalt

Tầm quan trọng của cobalt đối với sự sinh trưởng của các vi sinh vật cộng sinh như Rhizobia, các vi khuẩn cố định đạm sống tự do và tảo lục lam là vai trò của cobalt trong sự hình thành  vitamin B12, cobalt hình thành một phức chất với các phân tử đạm trong cấu trúc porphyrin có tác dụng như là một nhóm gốc hóa học tạo điều kiện cho sự kết hợp của nucleotic trong coenzyme B12, phức cobalt này còn gọi là cobamide coenzyme.

Các chức năng khác của cobalt là trao đổi chất leghemoglobin và ribonucleotide reductase trong vi khuẩn Rhizobium. Cobalt là một trong những kim loại hoạt hóa enolase succinic kinase.

Sự sinh trưởng, hô hấp, và quang hợp được cải thiện với việc bón phân cobalt đã được thực hiện trên bông vải, các loại rau đậu và mustard.

Lịch sử

Coban đã được biết đến từ thời cổ đại thông qua những hợp chất tạo cho thủy tinh có màu xanh dương đậm.

Georg Brandt (1694-1768) là nhà khoa học đã phát hiện ra coban. Thời điểm phát hiện vào khoảng thời gian 1730 - 1737. Ông đã chứng minh rằng coban là nguồn gốc tạo ra màu xanh dương trong thủy tinh, mà trước đây được người ta cho là do bismuth (Bismuth) (được phát hiện cùng với coban).

Trong suốt thế kỷ XIX, coban xanh dương được sản xuất tại nhà máy Blaafarveværket (Na Uy), sản lượng coban sản xuất tại đấy chiếm 70-80% sản lượng thế giới.

Vào năm 1938, John Livingood và Glenn Seaborg đã phát hiện đồng vị Co-60.

Tên gọi Coban (cobalt) có xuất xứ từ tiếng Đức kobalt hoặc kobold, nghĩa là linh hồn của quỷ dữ. Tên này do những người thợ mỏ đặt ra vì nó mang tính độc hại, gây ô nhiễm môi trường, và làm giảm giá trị những kim loại khác, như niken. Những nguồn khác thì lại cho rằng tên gọi phát sinh từ những người thợ mỏ bạc vì họ tin rằng coban được đặt ra bởi kobolds là những người đã từng đánh cắp bạc. Một vài nguồn khác cho rằng tên gọi có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp kobalos, nghĩa là 'mỏ', và có thể có nguồn gốc chung với kobold, goblin, và cobalt.

Phân bố

Coban không thể tìm thấy như là một kim loại tự do, mà nói chung là ở trong các dạng quặng. Người ta luôn luôn không khai thác coban riêng rẽ, và có xu hướng được dùng làm sản phẩm phụ trong hoạt động khai thác niken và đồng. Những quặng coban chính là cobaltite, erythrite, glaucodot, và skutterudite. Những quốc gia sản xuất nhiều coban nhất thế giới là Cộng hòa dân chủ Côngô, Trung Quốc, Zambia, Nga, và Úc. Coban còn được tìm thấy ở Phần Lan, Azerbaijan, và Kazakhstan. Nó còn được sản xuất ở thành phố Cobalt, tỉnh Ontario, ở Canada ở dạng sản phẩm phụ của hoạt động khai thác bạc.

Vai trò sinh học

Nhiều sinh vật sống (kể cả người) phải cần đến một lượng nhỏ coban trong cơ thể để tồn tại. Cho vào đất một lượng nhỏ coban từ 0,13-0,30 mg/kg sẽ làm tăng sức khỏe của những động vật ăn cỏ. Coban là một thành phần trung tâm của vitamin cobalamin, hoặc vitamin B-12.


Cobaltite

Cobaltite là một khoáng chất sulfide bao gồm coban, asen và lưu huỳnh, CoAsS. Tạp chất trong Cobaltite có chứa đến 10% sắt và niken. Về mặt cấu trúc, nó giống với pyrite (FeS2) với một trong những nguyên tử lưu huỳnh được thay thế bằng một nguyên tử asen.

Cobaltite, Riddarhyttan, Sweden

Tìm thấy chủ yếu ở Thụy Điển , Na Uy , Đức , Cornwall, Anh , Canada , La Cobaltera, Chile, Australia , Cộng hòa Dân chủ Congo và Maroc.


Erythrite

Erythrit hay coban đỏ là một khoáng chất arsenat coban ngậm nước thứ cấp.
Erythrite Locality: Bou Azzer, Bou Azzer District, Tazenakht, Ouarzazate Province, Souss-Massa-Draâ Region, Morocco (Locality at mindat.org) Size: 2.7 x 2.2 x 2.0 cm


Erythrit kết tinh trong hệ đơn tà và tạo thành tinh thể lăng trụ. Màu từ đỏ thẫm đến hồng và xuất hiện như một lớp phủ thứ cấp được gọi là coban nở trên các khoáng chất arsenide coban. Các tinh thể được hình thành tốt là rất hiếm, với hầu hết khoáng chất biểu hiện trong các lớp vỏ hoặc các tập hợp hình dạng nhỏ.
Erythrite lần đầu tiên được mô tả vào năm 1832 khi xuất hiện ở Grube Daniel, Schneeberg , Sachsen, và lấy tên của nó từ tiếng Hy Lạp έρυθρος ( erythros ), có nghĩa là màu đỏ. Về mặt lịch sử, bản thân erythrit không phải là một khoáng chất quan trọng về mặt kinh tế, nhưng những người khai thác có thể sử dụng nó như một chất dẫn đường cho coban và bạc bản địa liên quan .
Erythrit xuất hiện như một khoáng vật phụ trong vùng ôxít của các mỏ khoáng sản chứa Co – Ni – As. Nó xảy ra gắn với cobaltite , skutterudite , symplesite , roselite -beta, scorodite , pharmacosiderite , adamite , morenosite , retgersite , và malachite.
Các địa phương đáng chú ý là Cobalt, Ontario ; La Cobaltera, Chile, Schneeberg, Sachsen, Đức ; Joachimsthal , Cộng hòa Séc ; Cornwall , Anh ; Bou Azzer, Maroc ; mỏ Blackbird, Hạt Lemhi, Idaho ; Mỏ Sara Alicia, gần Alamos, Sonora , Mexico ; Núi Cobalt, Queensland và mỏ đồng Dome Rock, Mingary , Nam Úc .


Glaucodot

Glaucodot Locality: Håkansboda, Lindesberg, Västmanland, Sweden (Locality at mindat.org) Size: 3.3 x 2.7 x 2.6 cm


Skutterudite

Skutterudite and Nickeline Locality : Bou Azzer District, Tazenakht, Ouarzazate Province, Souss-Massa-Draâ Region, Morocco Size : (13x11cm)


Xem thêm:

Xanh coban